Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia
Theo Nghị quyết, phát
triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đang là yếu tố quyết
định phát triển của các quốc gia; là điều kiện tiên quyết, thời cơ tốt nhất để
nước ta phát triển giàu mạnh, hùng cường trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn
mình của dân tộc.Nghị quyết số 57-NQ/TW xác định
rõ mục tiêu, định hướng phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và
chuyển đổi số quốc gia một cách bài bản, hệ thống và đột phá. Nghị quyết không
chỉ đặt ra các chỉ tiêu cụ thể, mà còn chỉ rõ con đường, giải pháp để đạt được
những mục tiêu đó. Cụ thể:
Quan điểm chỉ đạo
Phát
triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là đột
phá quan trọng hàng đầu, là động lực chính để phát triển nhanh lực lượng sản
xuất hiện đại, hoàn thiện quan hệ sản xuất, đổi mới phương thức quản trị quốc
gia, phát triển kinh tế - xã hội, ngăn chặn nguy cơ tụt hậu, đưa đất nước phát
triển bứt phá, giàu mạnh trong kỷ nguyên mới.
Tăng
cường sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ
thống chính trị, sự tham gia tích cực của doanh nhân, doanh nghiệp và Nhân dân
đối với phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc
gia. Xác định đây là cuộc cách mạng sâu sắc, toàn diện trên tất cả các lĩnh
vực; được triển khai quyết liệt, kiên trì, đồng bộ, nhất quán, lâu dài với
những giải pháp đột phá, mang tính cách mạng. Người dân và doanh nghiệp là
trung tâm, là chủ thể, nguồn lực, động lực chính; nhà khoa học là nhân tố then
chốt; Nhà nước giữ vai trò dẫn dắt, thúc đẩy, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho
phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
Thể
chế, nhân lực, hạ tầng, dữ liệu và công nghệ chiến lược là những nội dung trọng
tâm, cốt lõi, trong đó thể chế là điều kiện tiên quyết, cần hoàn thiện và đi
trước một bước. Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật bảo đảm yêu cầu quản lý và
khuyến khích đổi mới sáng tạo, loại bỏ tư duy "không quản được thì
cấm". Chú trọng bảo đảm nguồn nhân lực trình độ cao cho phát triển khoa
học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; có cơ chế, chính
sách đặc biệt về nhân tài. Phát triển hạ tầng, nhất là hạ tầng số, công nghệ số
trên nguyên tắc "hiện đại, đồng bộ, an ninh, an toàn, hiệu quả, tránh lãng
phí"; làm giàu, khai thác tối đa tiềm năng của dữ liệu, đưa dữ liệu thành
tư liệu sản xuất chính, thúc đẩy phát triển nhanh cơ sở dữ liệu lớn, công
nghiệp dữ liệu, kinh tế dữ liệu.
Phát
triển nhanh và bền vững, từng bước tự chủ về công nghệ, nhất là công nghệ chiến
lược; ưu tiên nguồn lực quốc gia đầu tư cho phát triển khoa học, công nghệ, đổi
mới sáng tạo và chuyển đổi số. Phát huy tối đa tiềm năng, trí tuệ Việt Nam gắn
với nhanh chóng tiếp thu, hấp thụ, làm chủ và ứng dụng thành tựu khoa học, công
nghệ tiên tiến của thế giới; đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng, chú trọng nghiên cứu
cơ bản, tiến tới tự chủ và cạnh tranh về công nghệ ở một số lĩnh vực Việt Nam
có nhu cầu, tiềm năng, lợi thế.
Bảo đảm
chủ quyền quốc gia trên không gian mạng; bảo đảm an ninh mạng, an ninh dữ liệu,
an toàn thông tin của tổ chức và cá nhân là yêu cầu xuyên suốt, không thể tách
rời trong quá trình phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển
đổi số quốc gia.
Mục tiêu đến năm 2030
Tiềm
lực, trình độ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đạt mức tiên tiến ở nhiều
lĩnh vực quan trọng, thuộc nhóm dẫn đầu trong các nước có thu nhập trung bình
cao; trình độ, năng lực công nghệ, đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp đạt mức
trên trung bình của thế giới; một số lĩnh vực khoa học, công nghệ đạt trình độ
quốc tế. Việt Nam thuộc nhóm 3 nước dẫn đầu Đông Nam Á, nhóm 50 nước đứng đầu
thế giới về năng lực cạnh tranh số và chỉ số phát triển Chính phủ điện tử; nhóm
3 nước dẫn đầu khu vực Đông Nam Á về nghiên cứu và phát triển trí tuệ nhân tạo,
trung tâm phát triển một số ngành, lĩnh vực công nghiệp công nghệ số mà Việt
Nam có lợi thế. Tối thiểu có 5 doanh nghiệp công nghệ số ngang tầm các nước
tiên tiến.
Đóng
góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng kinh tế ở mức trên
55%; tỉ trọng xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao trên tổng giá trị hàng hoá xuất
khẩu đạt tối thiểu 50%. Quy mô kinh tế số đạt tối thiểu 30% GDP. Tỉ lệ sử dụng
dịch vụ công trực tuyến của người dân và doanh nghiệp đạt trên 80%; giao dịch
không dùng tiền mặt đạt 80%. Tỉ lệ doanh nghiệp có hoạt động đổi mới sáng tạo
đạt trên 40% trong tổng số doanh nghiệp. Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng
tạo góp phần quan trọng xây dựng, phát triển giá trị văn hoá, xã hội, con người
Việt Nam, đóng góp vào chỉ số phát triển con người (HDI) duy trì trên 0,7.
Kinh
phí chi cho nghiên cứu phát triển (R&D) đạt 2% GDP, trong đó kinh phí từ xã
hội chiếm hơn 60%; bố trí ít nhất 3% tổng chi ngân sách hằng năm cho phát triển
khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia và tăng dần theo
yêu cầu phát triển. Hệ thống tổ chức khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo được
sắp xếp lại bảo đảm hiệu lực, hiệu quả, gắn kết chặt chẽ giữa nghiên cứu - ứng
dụng - đào tạo. Nguồn nhân lực nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, đổi
mới sáng tạo đạt 12 người trên một vạn dân; có từ 40 - 50 tổ chức khoa học và
công nghệ được xếp hạng khu vực và thế giới; số lượng công bố khoa học quốc tế
tăng trung bình 10%/năm; số lượng đơn đăng ký sáng chế, văn bằng bảo hộ sáng
chế tăng trung bình 16 - 18%/năm, tỉ lệ khai thác thương mại đạt 8 - 10%.
Hạ tầng
công nghệ số tiên tiến, hiện đại, dung lượng siêu lớn, băng thông siêu rộng
ngang tầm các nước tiên tiến; từng bước làm chủ một số công nghệ chiến lược,
công nghệ số như: Trí tuệ nhân tạo, Internet vạn vật (IoT), dữ liệu lớn, điện
toán đám mây, chuỗi khối, bán dẫn, công nghệ lượng tử, nano, thông tin di động
5G, 6G, thông tin vệ tinh và một số công nghệ mới nổi. Phủ sóng 5G toàn quốc.
Hoàn thành xây dựng đô thị thông minh đối với các thành phố trực thuộc Trung
ương và một số tỉnh, thành phố có đủ điều kiện. Thu hút thêm ít nhất 3 tổ chức,
doanh nghiệp công nghệ hàng đầu thế giới đặt trụ sở, đầu tư nghiên cứu, sản
xuất tại Việt Nam.
Quản lý
nhà nước từ Trung ương đến địa phương trên môi trường số, kết nối và vận hành
thông suốt giữa các cơ quan trong hệ thống chính trị. Hoàn thành xây dựng, kết
nối, chia sẻ đồng bộ cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu các ngành; khai thác
và sử dụng có hiệu quả tài nguyên số, dữ liệu số, hình thành sàn giao dịch dữ
liệu. Phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, công dân số, công nghiệp
văn hoá số đạt mức cao của thế giới. Việt Nam thuộc nhóm các nước dẫn đầu về an
toàn, an ninh không gian mạng, an ninh dữ liệu và bảo vệ dữ liệu.
Tầm nhìn đến năm 2045
Khoa
học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số phát triển vững chắc, góp
phần đưa Việt Nam trở thành nước phát triển, có thu nhập cao. Việt Nam có quy
mô kinh tế số đạt tối thiểu 50% GDP; là một trong các trung tâm công nghiệp
công nghệ số của khu vực và thế giới; thuộc nhóm 30 nước dẫn đầu thế giới về
đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số. Tỉ lệ doanh nghiệp công nghệ số tương đương
các nước phát triển; tối thiểu có 10 doanh nghiệp công nghệ số ngang tầm các
nước tiên tiến. Thu hút thêm ít nhất 5 tổ chức, doanh nghiệp công nghệ hàng đầu
thế giới đặt trụ sở, đầu tư nghiên cứu, sản xuất tại Việt Nam.
7 nhiệm vụ giải pháp trọng tâm
1. Nâng
cao nhận thức, đột phá về đổi mới tư duy, xác định quyết tâm chính trị mạnh mẽ,
quyết liệt lãnh đạo, chỉ đạo, tạo xung lực mới, khí thế mới trong toàn xã hội
về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
2. Khẩn
trương, quyết liệt hoàn thiện thể chế; xoá bỏ mọi tư tưởng, quan niệm, rào cản
đang cản trở sự phát triển; đưa thể chế thành một lợi thế cạnh tranh trong phát
triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
3. Tăng
cường đầu tư, hoàn thiện hạ tầng cho khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và
chuyển đổi số quốc gia.
4. Phát
triển, trọng dụng nhân lực chất lượng cao, nhân tài đáp ứng yêu cầu phát triển
khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
5. Đẩy
mạnh chuyển đổi số, ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo trong hoạt
động của các cơ quan trong hệ thống chính trị; nâng cao hiệu quả quản trị quốc
gia, hiệu lực quản lý nhà nước trên các lĩnh vực, bảo đảm quốc phòng và an
ninh.
6. Thúc
đẩy mạnh mẽ hoạt động khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số
trong doanh nghiệp.
7. Tăng
cường hợp tác quốc tế trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và
chuyển đổi số.
Chi tiết tại file đính kèm:Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mớisáng tạo và chuyển đổi số quốc gia./.
Tin: Duy Việt