- Một là, sửa đổi, bổ sung quy định về tổ chức pháp chế ở các cơ quan
chuyên môn thuộc UBND tỉnh và bổ sung quy định về tổ chức pháp chế tại các đơn
vị sự nghiệp công lập, được quy định tại Khoản 10 và Khoản 11 Điều 1 Nghị định số
56/2024/NĐ-CP:
10. Sửa đổi, bổ sung Điều 9 như sau:
“Điều 9. Tổ chức pháp chế ở cơ
quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
1. Tổ chức pháp chế ở cơ quan
chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được thành lập tại cơ quan chuyên môn
có phạm vi quản lý rộng, yêu cầu quản lý chuyên ngành phức tạp và do Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh quyết định căn cứ vào yêu cầu quản lý nhà nước tại địa phương
và biên chế được giao.
Việc thành lập tổ chức pháp chế
tại khoản này được thực hiện theo quy định tại Nghị định số 107/2020/NĐ-CP ngày
14 tháng 9 năm 2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định
số 24/2014/NĐ-CP ngày
04 tháng 4 năm 2014 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc
Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
2. Trường hợp không đủ điều kiện
và tiêu chí thành lập tổ chức pháp chế thì bố trí trong Văn phòng (nếu cơ quan
chuyên môn có Văn phòng) hoặc phòng chuyên môn, nghiệp vụ (nếu cơ quan chuyên
môn không có Văn phòng). Tên gọi cụ thể của tổ chức này do Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh quyết định.
3. Tổ chức pháp chế ở các cơ
quan chuyên môn chịu sự kiểm tra về công tác pháp chế của Sở Tư pháp và chịu sự
hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ trong công tác pháp chế của tổ chức pháp chế
thuộc bộ, cơ quan ngang bộ quản lý ngành, lĩnh vực.”.
11. Bổ sung Điều 10a vào sau Điều 10 như sau:
“Điều 10a. Tổ chức pháp chế ở
đơn vị sự nghiệp công lập
1. Căn cứ vào yêu cầu công tác
pháp chế, cấp có thẩm quyền quyết định việc thành lập tổ chức, bộ phận pháp chế
chuyên trách hoặc bố trí viên chức thực hiện công tác pháp chế ở đơn vị sự
nghiệp công lập. Việc thành lập tổ chức hoặc bộ phận pháp chế chuyên trách thực
hiện theo quy định tại Nghị định số 120/2020/NĐ-CP ngày
07 tháng 10 năm 2020 của Chính phủ quy định về thành lập, tổ chức lại, giải thể
đơn vị sự nghiệp công lập và pháp luật có liên quan.
2. Tổ chức pháp chế, bộ phận
pháp chế chuyên trách, viên chức thực hiện công tác pháp chế ở đơn vị sự nghiệp
công lập chịu sự hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ trong công tác pháp chế của
tổ chức pháp chế cơ quan chủ quản và chịu sự quản lý về công tác pháp chế của
Bộ Tư pháp.”).
- Hai là, sửa đổi, bổ sung quy định về pháp chế viên và người đứng đầu tổ
chức pháp chế được quy định tại Khoản 12, Điều 1 Nghị định số 56/2024/NĐ-CP:
(12.
Sửa đổi, bổ sung tên điều và một số khoản của Điều 12 như
sau:
a) Sửa đổi, bổ sung tên Điều
12 như sau:
“Điều
12. Pháp chế viên và người đứng đầu tổ chức pháp chế”
b) Sửa đổi, bổ sung khoản
1 Điều 12 như sau:
“1.
Pháp chế viên và tiêu chuẩn người đứng đầu tổ chức pháp chế
a)
Pháp chế viên là công chức pháp chế, được bổ nhiệm vào ngạch pháp chế viên để
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức pháp chế theo quy định của pháp luật;
b)
Ngạch pháp chế viên bao gồm pháp chế viên, pháp chế viên chính, pháp chế viên
cao cấp;
c)
Tiêu chuẩn bổ nhiệm vào ngạch pháp chế viên: là công dân Việt Nam, trung thành
với Tổ quốc, có phẩm chất đạo đức tốt, có ý thức trách nhiệm, liêm khiết, trung
thực, công minh, khách quan; có trình độ cử nhân luật trở lên; có chứng chỉ bồi
dưỡng nghiệp vụ pháp chế và chứng chỉ khác theo quy định của pháp luật về cán
bộ, công chức; có ít nhất 02 (hai) năm được tính cộng dồn thực hiện một trong
các nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Chương II của
Nghị định này, không kể thời gian tập sự;
d)
Tiêu chuẩn bổ nhiệm vào ngạch pháp chế viên chính: là công dân Việt Nam, trung
thành với Tổ quốc, có phẩm chất đạo đức tốt, có ý thức trách nhiệm, liêm khiết,
trung thực, công minh, khách quan; có trình độ cử nhân luật trở lên; có chứng
chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ pháp chế và chứng chỉ khác theo quy định của pháp luật
về cán bộ, công chức; có thời gian giữ ngạch pháp chế viên hoặc tương đương tối
thiểu là 09 (chín) năm; trúng tuyển kỳ thi nâng ngạch hoặc được xét nâng ngạch
từ pháp chế viên lên pháp chế viên chính hoặc được xét chuyển ngạch theo quy
định của pháp luật về cán bộ, công chức;
đ)
Tiêu chuẩn bổ nhiệm vào ngạch pháp chế viên cao cấp: là công dân Việt Nam,
trung thành với Tổ quốc, có phẩm chất đạo đức tốt, có ý thức trách nhiệm, liêm
khiết, trung thực, công minh, khách quan; có trình độ cử nhân luật trở lên; có
chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ pháp chế và chứng chỉ khác theo quy định của pháp
luật về cán bộ, công chức; có thời gian giữ ngạch pháp chế viên chính hoặc
tương đương tối thiểu là 06 (sáu) năm; trúng tuyển kỳ thi nâng ngạch hoặc được
xét nâng ngạch từ pháp chế viên chính lên pháp chế viên cao cấp hoặc được xét
chuyển ngạch theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức;
e)
Tiêu chuẩn của người đứng đầu tổ chức pháp chế:
Người
đứng đầu Vụ hoặc Cục hoặc Ban thực hiện công tác pháp chế ở các bộ, cơ quan
ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Tổng cục và tương đương phải đáp ứng các
tiêu chuẩn chung theo quy định của pháp luật về tiêu chuẩn chức danh công chức
lãnh đạo, quản lý trong cơ quan hành chính nhà nước; các tiêu chuẩn của pháp
chế viên quy định tại điểm c khoản này; đã được bổ nhiệm vào ngạch pháp chế
viên trở lên; trường hợp là pháp chế viên, sau khi bổ nhiệm vào ngạch phải có
ít nhất 03 (ba) năm được tính cộng dồn thực hiện một trong các nhiệm vụ, quyền
hạn quy định tại Chương II của Nghị định này.
Người
đứng đầu Phòng hoặc tương tương thực hiện công tác pháp chế ở các đơn vị thuộc
cơ quan thuộc Chính phủ, Tổng cục và tương đương, Cục và cơ quan chuyên môn
thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phải đáp ứng các tiêu chuẩn chung theo quy định
của pháp luật về tiêu chuẩn chức danh công chức lãnh đạo, quản lý trong cơ quan
hành chính nhà nước; các tiêu chuẩn của pháp chế viên quy định tại điểm c khoản
này; đã được bổ nhiệm ngạch pháp chế viên trở lên; trường hợp là pháp chế viên,
sau khi bổ nhiệm vào ngạch phải có ít nhất 01 (một) năm được tính cộng dồn thực
hiện một trong các nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Chương
II của Nghị định này.
Trường
hợp luân chuyển, điều động người đứng đầu tổ chức, đơn vị khác sang giữ vị trí
người đứng đầu tổ chức pháp chế ở các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ, Tổng cục và tương đương, Cục và cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh thì người được luân chuyển, điều động phải đáp ứng các tiêu chuẩn
chung theo quy định của pháp luật về tiêu chuẩn chức danh công chức lãnh đạo,
quản lý trong cơ quan hành chính nhà nước; có trình độ cử nhân luật trở lên và
có ít nhất 03 (ba) năm được tính cộng dồn thực hiện một trong các nhiệm vụ,
quyền hạn của công tác pháp chế. Trường hợp chưa có trình độ cử nhân luật trở
lên thì trong thời hạn 12 (mười hai) tháng kể từ ngày được luân chuyển, điều
động, người đứng đầu tổ chức pháp chế phải có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ
pháp chế;
g)
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an căn cứ quy định tại các điểm c,
d, đ, e khoản này và pháp luật có liên quan quyết định chức danh pháp chế, tiêu
chuẩn chức danh pháp chế và người đứng đầu tổ chức pháp chế trong quân đội nhân
dân, công an nhân dân.”
c) Sửa đổi, bổ sung khoản
3 như sau:
“3.
Doanh nghiệp nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập vận dụng tiêu chuẩn, chế độ
quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này để lựa chọn, bố trí, sử dụng và quyết
định các chế độ đối với người làm công tác pháp chế.”).
- Ba là, mức hỗ trợ đối với người làm công tác pháp chế được quy định tại Khoản 2
Điều 4 Nghị định 56/2024/NĐ-CP:
(2. Căn cứ vào vị trí việc làm
về nghiệp vụ chuyên môn pháp chế trong cơ quan, tổ chức hành chính, người làm
công tác pháp chế ở bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ được hưởng
mức hỗ trợ là 60.000 đồng/ngày làm việc, ở các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh được hưởng mức hỗ trợ là 40.000 đồng/ngày làm việc. Chế độ hỗ
trợ này được áp dụng cho đến khi thực hiện chính sách tiền lương theo Nghị
quyết số 27-NQ/TW ngày 21 tháng 5 năm 2018 của Hội nghị lần thứ bảy Ban
Chấp hành Trung ương khóa XII về cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ,
công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp.
Doanh nghiệp nhà nước, đơn vị sự
nghiệp công lập vận dụng chế độ hỗ trợ nêu trên để quyết định các chế độ đối
với người làm công tác pháp chế).
- Bốn là, việc xắp xếp và giao nhiệm vụ
công tác pháp chế, được quy định tại Khoản3Điều 4 Nghị định 56/2024/NĐ-CP:
(3. Phòng Pháp chế tại các cơ
quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được thành lập trước ngày Nghị
định này có hiệu lực tiếp tục được duy trì, kiện toàn. Trường hợp các cơ quan
chuyên môn có Văn phòng mà nhiệm vụ công tác pháp chế đang được giao cho Thanh
tra hoặc phòng chuyên môn, nghiệp vụ thực hiện, thì trong thời hạn 12 (mười
hai) tháng kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực phải sắp xếp, giao cho Văn
phòng thực hiện.
Trường hợp các cơ quan chuyên
môn không có Văn phòng mà nhiệm vụ công tác pháp chế đang được giao cho tổ chức
khác không phải là phòng chuyên môn, nghiệp vụ thực hiện, thì trong thời hạn 12
(mười hai) tháng kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực phải sắp xếp, giao cho
phòng chuyên môn, nghiệp vụ thực hiện).
Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 02 tháng 7 năm
2024.
Chi
tiết tại file đính kèm: Nghị định56/2024/NĐ-CP ngày 18/5/2024 của Chính phủ./.
Mỹ Trang: Thanh tra Sở Khoa học và Công nghệ